Đọc lại văn bản Huyện đường trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 132 – 135) và trả lời các câu hỏi

Bài tập 3. Đọc lại văn bản Huyện đường trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 132 – 135) và trả lời các câu hỏi:

1. Lập bảng so sánh hai nhân vật tri huyện và để lại theo các tiêu chí: chức phận, tính cách, hành động. Những điều gì rút ra từ bảng so sánh trên có thể giúp bạn hiểu sâu thêm nội dung của cảnh tuồng Huyện đường?

2. Tri huyện tự nhận mình là kẻ "Sự lí thường phân ẩu/ Được thua tự đồng tiền". Việc làm nào của y (thể hiện qua lời thoại) cho thấy lời tự nhận đã nêu là hoàn toàn chính xác? HUC

3. Phân tích ý vị châm biếm toát ra từ lời thoại: “Quan chức nghĩ nên thú vị/ Vào ra cũng phải chuyên cần”

4. Giải thích nghĩa của câu:"Nắm đứa có tóc ai nắm kẻ trọc đầu". Theo bạn, triết lí sống chứa đựng trong câu này cho thấy điều gì về mối quan hệ quan – dân trong xã hội xưa?

5. Những thể thơ nào đã được tác giả sử dụng để xây dựng hệ thống lời thoại trong cảnh tuồng này? Ý nghĩa của sự lựa chọn đó là gì?

6. Nêu đặc điểm lời thoại của nhân vật trên sân khấu qua toàn bộ những câu đối đáp trong cảnh tuồng. Theo bạn, vì sao lời thoại trên sân khấu lại có đặc điểm như vậy?

Bài Làm:

1. 

Nhân vật 

Tri huyện 

Đề lại

Chức phận

- Cai quản 1 huyện ở Việt Nam thời phong kiến và được duy trì trong thời thuộc Pháp.

- Có uy thế.

Viên thư kí ở huyện đường

Tính cách

- Không coi trọng công lí, chiến thắng sẽ giành cho kẻ hối lộ nhiều tiền của.

- Gian nanh, tham lam.

- Nịnh nọt.

- Tham lam.

Hành động

- Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được

- Phải nắm đứa có tóc ai nắm kẻ troc đầu. Xử Ốc năm năm tù, Nghêu phạt đòn năm chục trượng, lí trưởng đòi ăn lót cần phạt trừn giới năm mươi quan tiền.

- Ăn thua là những chỗ khó đấy đấy, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được. Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò.

- Ta cứ để tra cứu đã. Thưa còn thằng Ốc, thằng Nghêu, lí trưởng, thị Hến thì liệu xử cho xong, bọn này toàn đầu trọc cả.

- Bẩm quan xử thật sâu sắc, nhưng đã xử Nghêu và Ốc rồi thì lấy gì mà không xử Sò với Hến được.

Ở cảnh tuồng Huyện đường cho em hiểu được rằng cả hai nhân vật đều có bản tính tham lam. Là những người cầm cán cân công lí nhưng lại không xử án công bằng, minh bạch, hợp tình hợp lí mà lại xử thắng cho ai hối của nhiều hơn. Đây là những người làm quan tắc tránh làm khổ nhân dân. Sự “phối hợp hoạt động” của cả hai có thể làm bộ máy chính quyền trở nên thối nát, gây ra nhiều tai hoạ cho xã hội.

 2. Toàn bộ hành động sau đó của tri huyện: 

- Ông đã dùng nguyên tắc “nắm đứa có tóc ai nắm kẻ trọc đầu” để xử án.

- Kẻ có tội bị phạt nặng đã đành nhưng nguyên cáo cũng không tránh khỏi việc bị phiền nhiễu.

- “Giả mù” khi thấy thuộc hạ đòi những người thưa kiện hối lộ.

3. Nhân vật tri huyện hài lòng với vị thế của mình khi là người quan chức, có tiếng nói tại địa phương, đặc biệt là kẻ khiến nhân dân lúc nào cũng trong trạng thái sợ hãi. Từ “chuyên cần” mà ông nói đến ở đây không phải là chăm chỉ làm việc, xử án công minh mà là ra sức vơ vét tiền của người dân để gia tăng tiền bạc cho chính mình. Quan đã trở thành một phần tất yếu của bộ máy cai trị thối nát. Theo đó, quan càng “mẫn cán” thì tai hoạ đối với tầng lớp bị trị càng lớn. Đây là người quan thối tha, độc ác. 

4. Câu nói này có nghĩa là lợi dụng người có của còn người không tiền thì không có gì để lợi dụng.

Mối quan hệ giữa quan với dân thời xưa là mối quan hệ không lành mạnh, vô đạo đức. Quan xử kiện bằng việc ai hối lộ nhiều tiền hơn thì thắng kiện trong khi đó, nhân dân thì nghèo đói, muốn bám lấy cán cân công lí nhưng không thể. 

5. Thể thơ:

- 5 chữ: “Quyền trọng trấn nha môn/ Bản chức xưng tri huyện/ Đỉnh chung đà đủ miếng/ Hoa nguyệt cũng quen mùi/ Lấy của cậy ngọn roi/ Làm quan nhờ lỗ khẩu/ Sự lí thường phân ẩu/ Được thua tự đồng tiền/ Dân xã nếu không kiêng/ Bỏ xuống lao giam kĩ”; “Nha lại vắng bẩm thân/ Dân xã không đấu cáo”

- 6 chữ: “Quan chức nghĩ nên thú vị/ Vào ra cũng phải chuyên cần”

Ý nghĩa: Việc sử dụng linh hoạt thể thơ năm chữ, thể thơ sáu chữ khiến lời thoại giữa các nhân vật trở nên mới mẻ, phong phú hơn. Đồng thời vì mang tính chất ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc mà bộc bạch được tính đê tiện của quan lại thời phong kiến. Đây cũng là một cách mà tác giả dân gian muốn “đóng đinh” vào trí nhớ của độc giả những phát ngôn đầy đê tiện của một viên quan tham nhũng.

6. Đặc điểm:

- Thể hiện rõ nét tính cách của nhân vật.

- Thông qua lời thoại, có thể biết được bối cảnh sự việc.

- Vừa hướng đến nhân vật trong vở tường, vừa hướng đến khán giả.

Lời thoại trên sân khấu có đặc điểm như vậy bởi lẽ, xuất phát từ tính chất là vở tuồng, chủ yếu thể hiện bằng ngôn ngữ mà lời thoại cần được chú trọng hơn bao giờ hết. Qua lời thoại phần nào thể hiện được tính cách của con người, từ đó mang dấu ấn riêng của vở tuồng.